Sau sự kiện UNESCO công nhận nghệ thuật đờn ca tài tử
là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, tỉnh Tiền Giang đã tổ chức lễ hội
vinh danh những người có công đóng góp cho bộ môn này, nhưng đã bỏ quên một người
có công lớn là Bạch Công Tử.
*Gánh hát, rạp hát đầu tiên…
Tiền Giang được xem là cái nôi
của nghệ thuật cải lương bởi vì ngay từ đầu thế kỷ 20, gánh hát và rạp hát cải
lương đầu tiên của Việt Nam đã ra đời tại Mỹ Tho.
Theo GS-TS Trần Văn Khê thì vào
thời đó có một người không phải trong giới cải lương, nhưng lại mê cải lương và
biến cải lương thành thương mãi là ông André Lê Văn Thận, quê ở Sa Đéc. Bấy giờ ông Thận có gánh hát xiệc, vì vậy giữa những màn hát xiệc, ông cho xen vào tiết mục ca có ra bộ để công
chúng xem cho vui. Năm 1917, không hiểu vì sao ông André Thận bán gánh xiệc lại
cho Thầy Năm Tú (tên thật là Châu Văn Tú, người làng Vĩnh Kim), một người rất mê
nhạc tài tử cải lương. Năm 1918, Thầy Năm Tú làm lại một gánh và đặt tên là “Gánh
hát của Thầy Năm Tú”, chuyên giới thiệu nhiều tiết mục ca ra bộ. Tuy nhiên, thấy
rằng cách làm đó không có vẻ nghệ thuật lắm vì khi diễn thì bài này không ăn với
bài kia, vì vậy ông đã nhờ một nhà nho là Trương
Duy Toản đứng ra làm thầy tuồng và tuồng đầu tiên viết theo tích của Kim Vân Kiều.
Không phải là nghệ sĩ cải
lương mà làm ra rạp hát cải lương, làm ra
dĩa hát cải lương và có công phổ biến nghệ thuật cải lương tới những nơi hẻo
lánh của thôn quê Việt Nam, thông qua máy hát Thầy Năm Tú. Đây là công lớn của Thầy Năm Tú. Ông là người hào hoa phong nhã và cũng là người
Việt Nam đầu tiên sở hữu xe hơi. Không thấy
tài liệu nào ghi lại lý do vì sao Thầy Năm Tú làm ăn sa sút, phải bán rạp hát lại
cho người khác làm rạp chiếu bóng rồi được đổi tên thành Ciné Palace, sau đó đổi
tên thành Rạp Vĩnh Lợi rồi bây giờ là Rạp Tiền Giang.
*Người có công bị bỏ quên
Tại buổi tọa đàm “Tiền Giang,
cái nôi nghệ thuật cải lương” ngày 18.1.2014, GS-TS
Trần Văn Khê cho biết: “Ban tổ chức không nhờ tôi nói về rạp Huỳnh Kỳ và gánh
hát Phước Cương, nhưng ở Mỹ Tho thời đó có Bạch
Công Tử (tên thật là Lê Công Phước, còn gọi là George Phước) con của Đốc phủ Lê
Công Sủng. Ông Sủng không phải là người đờn
ca tài tử, nhưng có đi cùng dàn nhạc của ông
Nguyễn Tống Triều sang dự cuộc đấu xão thuộc địa tại Pháp năm 1906, nhờ vậy mà Bạch
Công Tử được đi du học ở Pháp vào năm 1909. Vốn là người mê nhạc tài tử, năm 1926 khi Bạch Công Tử gặp ông Nguyễn Ngọc
Cương (thân phụ nghệ sĩ Kim Cương) thì hai
người hùn lại lập ra gánh Phước Cương, là gánh hát đại quy mô đầu tiên và đã
quy tụ được nhiều đào kép giỏi thời bấy giờ như Phùng Há, Năm Phỉ, Năm Châu… Tiếc là gánh này không tồn tại lâu. Sau đó Bạch
Công Tử mới lập ra gánh Huỳnh Kỳ, lấy cờ vàng làm hiệu. Khi gánh Huỳnh Kỳ tan rã,
cô Bảy Phùng Há (vợ Bạch Công Tử) mới lập gánh hát riêng”.
*Rạp hát của Bạch Công Tử xưa... |
“Như vậy, trong thời kỳ sơ
khai của cải lương, Thầy Năm Tú có công lớn
trong việc xây rạp hát đầu tiên rồi in dĩa, lắp ráp máy hát dĩa để phổ biến cải
lương ra công chúng. Trong bộ môn nghệ thuật sân khấu từ hát bội đến cải lương,
chưa có nơi nào có rạp hát như thế, cho nên
Tiền Giang hãnh diện có rạp Thầy Năm Tú, lại còn có rạp của Bạch Công Tử, rất
phong phú”, GS-TS Trần Văn Khê nhấn mạnh.
Vào đầu thế kỷ 20, cùng thời với Bạch Công Tử còn có Hắc Công Tử
(tên thật là Trần Trinh Huy, con ông Trần Trinh Trạch ở Bạc Liêu), hai người vốn nổi tiếng với nhiều giai thoại về
chuyện ăn chơi “sành điệu” ở vùng lục tỉnh Nam Kỳ. Sau năm 1975, di tích của Hắc Công Tử để lại là một tòa biệt thự
được xây dựng vào năm 1919 tại Bạc Liêu với
lối kiến trúc Pháp độc đáo, còn vật dụng,
tài sản thì phần lớn bị thất lạc. Tuy vậy,
hàng chục năm qua tòa nhà của Hắc Công Tử đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với
du khách trong và ngoài nước. Nhiều cuốn sách đã viết về những giai thoại quanh
cuộc đời ông.