Đình
Long Trung nằm cạnh ngã ba rạch Trà Tân và rạch
Ông Bảo thuộc ấp 17, xã Long Trung, huyện Cai Lậy, Tiền Giang, do dân làng Mỹ Đông Trung
lập vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19.
Theo tài liệu còn lưu giữ ở địa phương thì ban đầu chỉ là ngôi đình gỗ lá đơn sơ, gọi là Mỹ Đông Trung đình. Đến năm
1932, khi
2 làng Hưng Long và Mỹ Đông Trung được sáp nhập lại với tên gọi mới là Long Trung, từ đó đình cũng lấy tên theo.
Thời Pháp thuộc, đình Mỹ Đông Trung được trùng tu nhiều lần. Căn cứ dòng
lạc khoản ghi trên 2 bức hoành xưa còn giữ lại được thì có lẽ năm
Đinh Dậu (1897) là đợt trùng tu quy mô nhất. Các
cụ cao niên kể lại rằng, bấy giờ có một nhà nho đến làng Mỹ
Đông Trung mở trường dạy học và kêu gọi dân trong vùng góp công,
góp của xây dựng lại ngôi đình, sau đó nhiều nhà hảo tâm và phú hộ tiếp tục
hiến cúng các tác phẩm nghệ thuật như hoành phi, câu đối... Các bức chạm xưa
hầu hết do ông thợ Sửu - một nghệ nhân nổi tiếng trong vùng thực hiện.
Vào
giai đoạn chiến tranh, do nằm gần chợ Ba Dừa nên đình Long Trung ít bị thiệt hại. Qua hàng trăm năm tồn tại, ngôi đình được xem là đẹp nhất vùng. Đình Long Trung được xây
dựng theo mô hình nhà rường kiểu Huế gồm 3 dãy nhà: chánh
điện, võ ca và nhà hậu với diện tích hơn 500 m2, bằng các loại gỗ quí.
Kèo, xiên, trính được chạm trỗ và kết cấu bằng hệ thống mộng, chốt rất tinh vi,
chắc chắn. Nền đình lót gạch tàu, mái lợp ngói âm dương. Nóc đình trang trí lưỡng long tranh châu, lân, cá hóa long... đều là những tác phẩm của lò gốm Cây Mai vào đầu thế kỷ 20.
Chánh tẩm được xây dựng theo kiểu 3 gian
2 chái, cột gỗ tròn có đường kính hơn 3 tấc, kê trên các tảng đá vuông, các
đôi long trụ có gắn liễn đối chạm rời, ốp vào. Đây là khu vực tập trung nhiều
tác phẩm mỹ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối chạm trổ tinh vi, sơn son
thếp vàng với các đề tài tứ linh, cá hóa long, bát tiên, tứ quí, mây hạc,
được tạo hình rất sinh động. Khu vực võ ca là nơi tổ chức xây
chầu hát xướng trong dịp lễ Kỳ Yên nên có diện tích lớn hơn. Ông
Võ Thanh Hùng, Phó ban quản lý đình cho biết, hồi
xưa hai bên sân khấu võ ca có thiết kế các bậc gỗ dành cho khán giả ngồi xem hát. Nhưng đến những năm 1980,
do không ai quản lý và được trưng dụng làm kho phân bón nên
bị người ta cắt lấy gỗ. Một số bài vị tiền hiền, hậu hiền sơn son
thếp vàng
cũng bị mất, 4 tượng gỗ bố trí ở 4 góc cột chánh điện
cũng bị chẻ làm củi chụm, còn gạch nền mục hết, mái ngói dột nhiều chỗ. Rất may là
những bức hoành treo ở võ ca trước chánh tẩm do cao quá
nên không bị phá. Trong 3 bức hoành này, bức treo ở giữa ghi biển
hiệu Mỹ Đông Trung đình là đẹp nhất, được chạm khắc 2
lớp với các phù điêu hoa văn kỳ hoa dị thảo, bách thú, bách điểu... và trên bức hoành có gắn tượng tròn 3 ông Phước Lộc Thọ.
Ngày xưa đường thủy thuận tiện hơn nên cổng
chính của
ngôi đình được xây hướng ra phía ngã
ba sông. Mỗi dịp Kỳ Yên dân làng đóng bè thủy lục rước sắc thần. Năm
1936 ông Hồ Đắc Thăng cúng tiền xây dựng cổng đình theo mô típ trụ biểu như
đình miền Bắc, không có mái gác ngang, đồng thời ông nhờ cụ Đặng Thúc Liêng
viết câu đối hai bên cổng. Đến sau năm 1975, cổng này vẫn còn.
Năm
1999, đình Long Trung được xếp hạng là
di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia và sau đó không
lâu thì đình
được trùng tu. Ngoài việc sơn phết lại nội thất, kiến trúc ngôi đình được giữ nguyên, chỉ lót lại gạch
mới và thay mái ngói, nhất là giữ lại bộ giàn trò ở chánh điện và võ ca. Riêng cổng đình thì được sửa lại quay ra hướng chợ Ba Dừa để thuận đường
bộ, vì vậy
mặt tiền ngôi đình xưa được bít
ngang làm hàng rào. Nhưng cái cổng cũ không được di dời
hay phục chế lại mà xây mới theo lối kiến trúc thường thấy ở các công trình
được trùng tu gần đây: cổng tam quan, mái cong.
Sau một thời gian trùng tu, sửa chữa, các tác phẩm mỹ thuật đình Long Trung hiện thời đã xuống cấp thê thảm.
Ông Võ Thanh Hùng bức xúc: “Các bộ biển liễn, hoành phi,
câu đối sơn son thếp vàng ngày xưa rực rỡ lắm, còn bây giờ vàng
không ra vàng trắng không ra trắng. Các bức chạm con nạ gắn trên đầu cột hay bộ
long, lân, qui, phụng trên bộ long trụ cũng bị sơn lại nay xỉn màu hết. Hai cây cột phía
trong chánh tẩm xưa được sơn then (chất liệu chế từ nhựa cây sơn) rất bóng, khi trưng bày bông
hoa, trái cây sẽ tương phản, làm nổi bật bàn thờ thần. Khi
trùng tu đáng
lẽ giữ nguyên và chỉ cần chùi rửa lại, họ đem sơn lại màu đen tối thui, mất hết giá trị. Toàn bộ các tác phẩm thếp vàng xưa thì bị lấy vàng giả (nhũ
vàng) phủ lên vàng thiệt”.
Khi được hỏi vì sao lúc thi công hội
đình không có ý kiến, ông Hùng bảo: “Họ đâu có cho mình tham gia. Không được giám sát, không góp ý gì hết. Làm xong thì họ bàn giao cho tỉnh,
huyện, người trong hội cũng không được chứng kiến buổi bàn
giao”. Hiện
nay mái đình đã xuất hiện vài chỗ dột, bên trong có 3 khánh
thờ và bàn hội đồng bằng gỗ đã mục. Còn bức hoành phi đẹp nhất khắc
bốn chữ Mỹ Đông Trung đình lại rớt mất chữ “đình”.
Cách đây không lâu,
Bộ VH-TT-DL có cử cán bộ vào xem xét tính toán việc
trùng tu tiếp như thay lại ngói, táng đá …và gợi ý thay cửa chánh
tẩm. Nhưng
hội đình không đồng ý vì cửa còn tốt, trám cửa chạm tùng,
cúc, trúc, mai, bao lam trên cửa chạm phụng... còn y nguyên,
nếu gỡ xuống sẽ hư. “Đình xưa có hai lớp cửa, gài song hồng, nhưng sau khi trùng tu đã tháo bỏ lớp phía trong. Nay sợ mấy ổng thay bằng cửa
sắt thì hỏng hết. Còn các tấm táng cột đình xưa bằng đá, khi trùng tu lại thay bằng táng xi măng. Số táng cũ thì chôn vùi xuống nền, số còn lại tứ tán đâu
hết, giờ lại muốn thay bằng táng đá, không thể hiểu nổi”, ông Đình lắc đầu nói.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét